Category Archives: Bài viết mới

Tư liệu thứ tám (viết năm 1980)của Đặng Văn Trình viết năm 1980 Nước có nguồn, cây có gốc, con người có Tổ tông. Nguồn dài nước lớn, gốc tốt ngọn tươi, Tổ tông tích đức lâu đời, con cháu ngày càng thịnh vượng. Sách xưa dạy: “Uống nước phải nhớ nguồn, yêu nòi chớ quên Tổ”. Vì thế, từ xưa, họ nào cũng có gia phổ. Gia phổ cũng như quốc sử để ghi chép sự việc đời trước. Nước không có quốc sử, thì sự nghiệp vĩ đại của các vị Anh hùng dân tộc, nay không còn ai biết mà nhắc đến. Họ không có gia phổ thi công phu gây dựng khó nhọc của Tổ tông, nay con cháu không biết đâu mà dà tìm. Bởi vậy, nước phải có sử và họ phải có gia phổ. Nguồn gốc họ ta, theo bản thủ biên của…

Read more

Tư liệu thứ bảy (viết năm 1937)Đặng Văn Trình dịch nghĩa Họ có phổ, như nước có sử, là điều không thiếu được vậy. Nói về họ Đặng ta, móng nền nhân nghĩa, vun đắp lâu đời, lưu truyền đến nay, kể đã lâu dài. Trải tám chín đời về trước, sự việc thực khó bằng khảo, may nhờ có Tiên công ta, tàng giữ được một đạo phổ ký, trong đó có chép đại lược Tiên thế, nhưng thế thứ trên dưới, đại tự trước sau, chưa được tường minh. Nay nhân lúc thư nhàn, tôi tu soạn bản Tiền biên, trước ghi chép từ thụy hiệu của tiền nhân, để con cháu biết mà tôn kính, kiêng kỵ, không giám kêu gọi quàng xiên (trùng tên hiệu ông bà), dưới biên húy hiệu các hàng bá, thúc, để con cháu biết mà phụng thờ, không giám để sơ…

Read more

Tư liệu thứ sáu (viết năm 1912)Đặng Văn Trình dịch nghĩa Gia phổ cũng như quốc sử, để ghi chép sự việc. Có Tổ tiên tích lũy hàng trăm ngàn năm mới có được như ngày nay. Tuy lời nói việc làm đời trước, tai không nghe mắt không thấy, nhưng đức dày công lớn của người xưa, nhờ phổ ký cũng tưởng mà thấy rõ ràng. Mở phổ ký ra, khiến người đọc có cảm tưởng như Tổ tiên còn đó, gây tình thân thiện hòa mục với nhau. Hệ thống họ ta, phát tích từ trấn Sơn Nam Thượng, nay là hạt Hà nội, Chương Đức, theo cựu phổ truyền lại, dời vào thôn Hưng Lệ, rồi lại vào xã Tùng Lâm, lâu đời xa xôi mờ mịt, khó lòng tra cứu. Nay chỉ còn sáu, bảy ngôi tổ mộ, hàng năm cùng chi Thanh Tân tế tảo,…

Read more

Tài liệu thứ năm (viết năm 1890)Đặng Văn Trình dịch nghĩa Phổ ký họ ta, trước đây không biết gốc tích từ đâu ? Cựu phổ chỉ chép: nguyên quán ở xứ Sơn Nam Thượng, huyện Chương Đức (Hà Đông), bị nạn giặc dã, phiêu cư vào trang Sạ Lễ, huyện Hưng Nguyên, phủ Anh Đô, tỉnh Nghệ An, đến đời Trung Tín Công (Đặng Tiến Công) mới dời ra xã Tùng Lâm (tức Nho Lâm), nhờ đất tốt, trở thành vị phát phúc đầu tiên của chi họ. Thực nghe truyền như vậy, mà không biết tra cứu vào đâu? Mãi đến năm Nhâm Ngọ (1882), Thụy tôi, nhờ phúc Tổ, may mắn đỗ cử nhân (năm Tự Đức thứ 35). Bấy giờ, nhạc đường là cụ Cao Long Cương (mỹ tự Xuân Dục) làm đến Đông các đại học sĩ, nhậm chức tri phủ Ứng Hòa, nhân thể…

Read more

Tư liệu thứ tư (viết năm 1888)Đặng Văn Trình dịch nghĩa Muôn dòng ngàn lạch, nước chung một nguồnMuôn lá ngàn cành, cây chung một gốc. Nguồn dài nước lớn, gốc tốt ngọn tươi. Hòe sân Vương, cây thềm Tạ là nhờ đâu? Há chẳng phải Tổ tiên tích đức để lại cho sao? Tiên đại họ ta, trước thì ở Chương Đức – Lương Xá, sau lại vào Anh Đô – Hưng Nguyên, khoảng bốn, năm đời xa xôi mờ mịt, di tích khó lòng khảo cho tường tận. Hiện nay, chỉ còn bảy ngôi Tổ mộ ở xứ Lủm Lác, đồi Núi Lĩnh, thôn Hưng Lệ là còn nguyên. Tiên tổ chúng ta là Trung Tín Công (Đặng Tiến Công), thích phong thổ tươi đẹp xã ta, di cư ra ở, nhân đó tìm được đất hay ở Tùng Lâm, đưa di hài Ông, Bà, Cha, Mẹ ra…

Read more

Tư liệu thứ ba (viết năm 1876)Đặng Văn Trình dịch nghĩa Ngày … tháng … năm Bính Tý (1876) niên hiệu Tự Đức, Lý trưởng xã ta là Đặng Trọng Cầu, người họ ta, nhân đi việc công vào tỉnh, gặp quan hiến đài (bố chính), lúc đó là Đặng Văn Huấn, người tỉnh Quảng Trị. Việc công xong, ông bảo ông Lý rằng: “Quý hạt đây, có trại Cao Kiều mộc, trước đây tôi có nghe tiền nhân nói chuyện, đó chính là nơi phát tích của Tổ tiên họ tôi, chúng ta đều dòng dõi Nam Dương, cùng trọng một họ cả, không biết nơi ấy nguyên uỷ ra sao ?”. Tiếc rằng ông Lý là người không biết phổ ký, vả lại ông Bố cúng được vài tháng thì chuyển đi nơi khác, chưa kịp về Đồn Kiều tế tảo Tổ mộ, thật là đáng tiếc. Tuy…

Read more

Tư liệu thứ hai (viết năm 1870) (Đặng Văn Trình dịch nghĩa) Họ có Phổ như nước có Sử, vì sử là để biên chép việc thịnh suy của một nước, phổ là để ghi thế hệ của một dòng họ, thực là có quan hệ mật thiết với nhau vậy. Tiền đại họ Đặng ta, trước đây không biết phát tích từ đâu ? Cư trú nơi nào ? Gần đây, nhờ Tiên Đồng bói ra mới biết phát tích từ Hải Dương. Khoảng từ đời Lê Hồng Đức (1469 – 1497) bị loạn ly phiêu dạt, di cư vào thôn Quang Trạch, huyện Đông Thành. Từ đó, nhờ giang sơn phù hộ, con cháu ngày càng đông thịnh, sinh hạ bốn chi: Thần chủ chi thứ nhất do Đặng Khắc Bình phụng tự, chi thứ hai do Đặng Khắc Cân phụng tự. Tuy con cháu có người thiên…

Read more

Tư liệu thứ nhất (viết năm 1858) (tạm dịch nghĩa) Ngày 11 tháng 12 năm Tự Đức thứ 11 (Mậu Ngọ 1858), người xã Thanh Tân (tháng 5 năm Thiệu Trị thứ 3 – 1842 – đổi xã Thanh Thuỷ làm xã Thanh Tân), tổng Bạch Hà, huyện Lương Sơn (tháng 8 năm Minh Mệnh thứ 21 – 1840 – trích 4 tổng Thuần Trung, Đô Lương, Bạch Hà và Lạng Điền của huyện Nam Đường và tổng Đặng Sơn của huyện Thanh Chương lập ra huyện Lương Sơn), phủ Anh Đô (tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 4 – 1822 – đổi tên làm phủ Anh Sơn), Tỉnh bằng Tổng giáo Đặng Văn Giai biên tập gia phổ để lại đời sau noi giữ. Hỡi ôi! muôn vật do Trời, con người do Tổ, đức lớn mở dòng, công sâu vun đắp. Muôn dòng ngàn suối của con sông…

Read more

Phần gia phổ chưa có cứ liệu: Mốc thời gian ước tính Triều đại Địa bàn cư trú Đời thứ Diễn giải thế hệ 1390 Hậu Trần và thuộc Minh Hải Dương   Theo gia phổ họ Đặng Bạch Ngọc, tiền thuỷ tổ họ Đặng là Đặng Phúc Thông, người Trung Quốc, xứ Nam Dương (?), sinh 2 con trai, con cả dời về Nam Định, con thứ về Hà Đông là Đặng Trọng Đông 1410 – Chương Đức, Hà Đông   Đặng Trọng Đông 1430 – Bạch Đường, Anh Sơn, Nghệ An   Đặng Minh Bích (đỗ Tiến Sĩ năm 1484, có 9 con trai, mới biết tung tích 2 người không rõ Đặng Thừa Thiệu có phải là 1 trong 7 người còn lại không ? Phần gia phổ có cứ liệu: Mốc thời gian ước tính Triều đại Địa bàn cư trú Đời thứ Diễn giải thế…

Read more

Trong đó có: Chi Tôn Đặng Văn Dương lịch Âm lịch Triều đại Họ và tên Học vị Nghề nghiệp chức tước 1666 Bính Ngọ Lê Huyền Tông Đặng Quang Khải Hiệu sinh Dạy học – – – Đặng Quang Xán – Thầy thuốc 1669 Kỷ Dậu – Đặng Quang Xán đỗ lần 2 – 1678 Mậu Ngọ Lê Hy Tông Đặng Sĩ Phúc Hiệu sinh Dạy học – – – Đặng Sĩ Ái Hiệu sinh Thầy thuốc 1681 Tân Dậu – Đặng Uyên Doãn Hiệu sinh 1684 Giáp Tý – Đặng Hữu Phương Hiệu sinh 1687 Đinh Mão – Đặng Tòng Cũ Hiệu sinh 1693 Quý Dậu – Đặng Đức Dư Hiệu sinh – – – Đặng Phác Thực đồng khoa 1703 Quý Mùi – Đặng Phúc Minh Tam giáp Tiến sĩ Thái thường tự khanh 1756 Bính Tý Lê Hiển Tông Đặng Danh Dương Hiệu sinh 1768 Mậu…

Read more

10/11